Hồ Quý Ly và những bài học lịch sử về cải cách văn hóa, giáo dục
Hồ Quý Ly (1336 - 1407) quê ở Đại Lại, Vĩnh Lộc (nay là Hà Đông, Hà Trung, Thanh Hóa) là người có cá tính, có bản lĩnh, có tham vọng lớn lao; dám làm những việc mạo hiểm và xử lý khác thường trong các mối quan hệ. Đánh giá về Hồ Quý Ly có nhiều ý kiến khác nhau nhưng chỉ với việc cho xây dựng tòa thành đá, từ mục tiêu ban đầu là một căn cứ quân sự chống lại giặc Minh, ngày nay trở thành di sản văn hóa thế giới, cùng với những chính sách cải cách táo bạo, toàn diện, nhất là về văn hóa, giáo dục đã khẳng định, ông xứng đáng là một vị vua văn hóa, vị vua yêu nước.
Khi mới bước lên vũ đài chính trị, với vai trò là một đại thần nhà Trần, Hồ Quý Ly đã từng bước đề ra tư tưởng cải cách của mình, song vì chưa nắm được quyền lực quốc gia trọn vẹn trong tay, nên không đủ điều kiện thực hiện cải cách đến nơi đến chốn. Khi giành được chính quyền, ông trực tiếp điều khiển công cuộc cải cách trên cương vị một nhà vua, một Thái thượng hoàng. Các chính sách cải cách của Hồ Quý Ly rất toàn diện, táo bạo trên khắp các lĩnh vực chính trị, hành chính, quốc phòng, tài chính, tư tưởng, văn hóa xã hội, giáo dục, trong đó, cải cách về tư tưởng, văn hóa, giáo dục được coi là tiến bộ nhất. “Về văn hóa, tư tưởng, cải cách của Hồ Quý Ly thể hiện tinh thần phát huy văn hóa dân tộc, đề cao chữ quốc ngữ (chữ Nôm), đồng thời bài bác tư tưởng các thánh hiền Trung Quốc mà gần như toàn thế giới nho sĩ bấy giờ vẫn coi là bất khả xâm phạm. Về giáo dục, nội dung cải cách thể hiện tinh thần yêu nước, tính đại chúng và gắn bó với cuộc sống” (Phan Đăng Thanh - Trương Thị Hòa, Cải cách Hồ Quý Ly, Nxb Tổng hợp TP HCM, 2012, tr156).
Những biện pháp cải cách về văn hóa của Hồ Quý Ly đã tạo nền tảng tư tưởng cho cải cách giáo dục. Trước khi nắm quyền điều hành triều chính, tháng 12 năm Nhâm Thân (1392), Hồ Quý Ly đã soạn sách Minh đạo làm sáng tỏ đạo Nho (có người hiểu “minh đạo” nghĩa là con đường sáng) gồm 14 thiên, dâng lên Thái thượng hoàng Trần Nghệ tông. Hạ thấp vai trò của Khổng Tử, đề cao Chu Công, Hồ Quý Ly cho rằng “Chu Công là Tiên thánh, Khổng Tử là Tiên sư”, khi sắp xếp ngôi thứ thờ ở Văn Miếu thì “đặt bài vị Chu Công ngồi giữa, mặt hướng Nam, bài vị của của Khổng Tử ngồi bên, mặt hướng Tây”. Ông đã phê phán một số danh nho, nghi ngờ một số chỗ trong sách Luận Ngữ của Khổng Tử, phê phán thói giáo điều của các nhà Nho, như Hàn Dũ, Chu Đôn Di, Trình Hiệu là “trộm Nho”, “cóp nhặt văn chương”; đồng thời ông đề nghị khuyến khích thực học, kén người tài năng. Như vậy, khác với thời Lý Trần, Hồ Quý Ly hạn chế Phật giáo, Đạo giáo, đề cao Nho giáo, nhưng là thứ Nho giáo thực dụng, chống giáo điều, kết hợp với tinh thần Pháp gia. Đây chính là nền tảng tư tưởng, triết lý cho những biện pháp cải cách giáo dục của ông.
Hồ Quý Ly là vị vua đầu tiên ở nước ta phổ biến rộng rãi việc dùng chữ Nôm, đưa chữ Nôm lên vị trí quan trọng. Điều đó được xem là biểu hiện của ý chí nêu cao tinh thần dân tộc. Ông soạn sách Thi nghĩa (nghĩa của Kinh Thi) bằng chữ quốc âm rồi sai người dạy cho hậu phi và cung nhân học tập. Ông còn chép thiên Vô dật (Không nên nhàn hạ) ra chữ quốc âm để dạy Vua Trần Thuận tông. Hai cuốn sách biên dịch nói trên cùng nhiều bài thơ Nôm của Hồ Quý Ly đã cho thấy “thái độ đề cao, khuyến khích việc phổ biến và sử dụng chữ Nôm đến mức độ nào. Thái độ đó nói lên một cách hùng hồn tinh thần dân tộc của Hồ Quý Ly và tinh thần ấy lại được thể hiện qua cẩm nang dành để dạy dỗ những người đang giữ cương vị tối cao trong xã hội. Thật là một hành vi văn hóa có ý nghĩa lịch sử hết sức đặc biệt” (Sđd, tr.162). Trước Hồ Quý Ly, chỉ có Hàn Thuyên và Nguyễn Sĩ Cố đời Trần làm thơ chữ Nôm, còn nói chung tầng lớp quý tộc, trí thức Đại Việt thường chỉ biết có chữ Hán, chỉ coi trọng chữ Hán. Tuy vậy, dù coi trọng chữ Nôm nhưng Hồ Quý Ly mới dừng lại ở việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm và viết sách chữ Nôm, còn việc thi cử vẫn thực hiện bằng chữ Hán.
Tháng 5 năm Đinh Sửu (1397), theo ý của Hồ Quý Ly, Vua Trần Thuận tông xuống chiếu cải cách giáo dục ở các phủ, lộ. Hệ thống trường lớp tại các địa phương được Hồ Quý Ly thúc đẩy mở rộng từ cuối thời Trần và tiếp tục duy trì sang thời Hồ. Theo đó, tại các lộ xa như Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông, mỗi phủ đều đặt một học quan, ban ruộng công cho phủ, châu lớn 15 mẫu, vừa 12 mẫu và nhỏ 10 mẫu để chi dụng dạy học ở lộ, phải đốc thúc học quan dạy dỗ học trò để cho thành tài nghề. Mỗi cuối năm phải chọn người học giỏi tiến vào triều. Hệ thống trường học này do các nhà Nho và Thái học sinh không làm quan, về nhà dạy học (Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, tập VII, Nxb Văn Sử Địa, H, 1958, tr.670).
Về thi cử, từ năm 1396, dưới thời Trần Thuận tông, lệ thi 4 trường được Hồ Quý Ly quy định lại so với quy chế trước đó, bỏ cách thi ám tả cổ văn mà định ra tứ trường văn. Đến tháng 2-1404, nhà Hồ quy định cách thức thi cử nhân gồm thi Hương, thi ở Bộ Lễ, thi Hội (đỗ Thái học sinh). Các đợt thi đều tổ chức vào tháng 8 hàng năm. Ai đỗ cấp nào sẽ được hưởng chế độ ưu đãi tùy theo, như đỗ thi Hương được miễn lao dịch, đỗ ở Bộ Lễ thì miễn đi lính.
Đây là lần đầu tiên môn Toán được đưa vào nội dung thi chính thức. So với các đời trước, hình thức và nội dung thi của nhà Hồ có tính thiết thực hơn, giảm bớt tính “tầm chương, trích cú”, gắn với mục tiêu đào tạo “hiền tài” vì một nền giáo dục “tỏ rõ giáo hóa, giữ phong tục” nhằm nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài cho đất nước. Tồn tại 7 năm, nhà Hồ đã tổ chức được 2 kỳ thi, lấy gần 200 người đỗ, trong đó có 1 trạng nguyên là Lưu Thúc Kiệm với bài phú “Linh kim tàng”.
Rất tiếc, nhà Hồ chỉ tồn tại ngắn ngủi, nên nhiều tư tưởng biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly chưa có điều kiện thực hiện. Tuy vậy, chỉ mấy chục năm sau đã được Lê Thánh tông kế thừa và phát triển và đạt những thành tựu rực rỡ ở nửa sau thế kỷ XV. Một số nhân tài đỗ đạt dưới thời Hồ sau này phục vụ cho nhà Lê Sơ, Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành...
Đến nay, những tư tưởng biện pháp cải cách văn hóa, giáo dục của Hồ Quý Ly vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc đổi mới giáo dục ở nước ta. Trải qua 5 lần cải cách giáo dục (1950, 1956, 1979, 2000 và 2018), chúng ta vẫn đang kế thừa những bài học cải cách giáo dục của quá khứ, học tập những kinh nghiệm, tinh hoa của các nước có nền giáo dục tiên tiến, nhưng vẫn phải đề cao tính dân tộc: “hiện đại, cơ bản và phù hợp với thực tiễn Việt nam".
(Nguồn: baothanhhoa.vn)
Cập nhật ngày: 02/06/2022